bệnh viêm đa cơ

Viêm đa cơ và viêm da cơ là bệnh hệ thống chưa rõ nguyên nhân, có cơ chế tự miễn. Bệnh đặc trưng bởi tình trạng viêm, thoái hóa của các sợi cơ vân, gây yếu cơ, teo cơ, đặc biệt là các cơ ở gốc chi, dẫn đến giảm hoặc mất chức năng vận động. Các hướng điều trị bệnh viêm da cơ địa tốt nhất. Chúng ta có rất nhiều cách để điều trị bệnh viêm da cơ địa, từ Tây y, Đông y cho tới các mẹo dân gian. Bệnh nhân khi sử dụng những phương pháp này sẽ giúp kìm hãm tốt sự phát triển của bệnh, đẩy lùi các triệu Phác đồ điều trị viêm ống dẫn trứng không quá khó khăn khi nền y học ngày càng phát triển. Người bệnh nên đi khám tại các cơ sở uy tín để điều trị sớm. Viêm âm đạo là tình trạng viêm nhiễm, nhiễm trùng ở âm đạo của chị em nữ giới gây ngứa rát, sưng đau, tấy đỏ và ra nhiều khí hư bất thường có mùi hôi khó chịu ở âm đạo – âm hộ, chủ yếu do vi khuẩn, nấm, trùng roi, tạp khuẩn, ký sinh trùng gây nên. Bệnh có Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, tuy nhiên, đáng kể là các nguyên nhân cơn bản sau: do nhiễm độc thuốc; do nhiễm trùng và do di truyền. Giải pháp an toàn cho bệnh viêm da cơ - viêm đa cơ mùa COVID. Về thuốc, các thuốc gây độc và dẫn tới bệnh là Ơi Vay Lừa Đảo. Đau đa cơ dạng thấp thường gặp ở người > 55 tuổi; tỷ lệ giữa nam và nữ là 2 nhân và sinh bệnh học chưa rõ. Các dấu hiệu trên siêu âm và MRI gợi ý tổn thương do viêm màng hoạt dịch và viêm bao thanh dịch thể trục mức độ thấp. Triệu chứng và Dấu hiệu Đau cơ dạng thấp. Đau đa cơ dạng thấp được đặc trưng bởi triệu chứng đau gốc chi, đối xứng hai bên của vai, hông, các cơ đai vai và lưng ngực và thắt lưng và các cơ cổ. Thường có cứng khớp buổi sàng và kéo dài > 60 phút. Các triệu chứng của viêm bao thanh dịch gốc chi ví dụ bao thanh dịch dưới cơ delta, dưới mỏm cùng vai và ít gặp viêm bao gân nhị đầu hoặc viêm màng hoạt dịch khớp. Khó chịu có thể khiến bệnh nhân tỉnh giấc và các triệu chứng nặng hơn vào buổi sáng; có thể nặng tới mức khiến bệnh nhân không thể dậy khỏi giường và làm những công việc đơn giản. Đau có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy yếu, nhưng yếu cơ không phải là đặc điểm của bệnh. Các dấu hiệu lâm sàngLoại trừ các nguyên nhân khácNghĩ tới đau đa cơ dạng thấp ở bệnh nhân lớn tuổi với các triệu chứng điển hình, nhưng phải loại trừ các nguyên nhân có thể khác. Các xét nghiệm bao gồm tốc độ máu lắng ESR, protein phản ứng C, công thức máu, nồng độ hóc môn kích thích tuyến giáp và CK. > 80% bệnh nhân có tốc độ máu lắng tăng lên đáng kể, thường > 100 mm/giờ, > 50 mm/h phương pháp Westergren. CRP cũng tăng. Điện cơ, sinh thiết và các xét nghiệm khác như yếu tố dạng thấp, bình thường trong đau đa cơ dạng thấp, nhưng được làm để loại trừ các bệnh lý khác nghi ngờ trên lâm dấu hiệu sau giúp phân biệt đau đa cơ dạng thấp với PrednisoneĐánh giá hiệu quả điều trị dựa vào các triệu chứng, máu lắng, và CRP. Khi triệu chứng được cải thiện, giảm liều corticosteroid tới liều thấp nhất có hiệu quả trên lâm sàng, bất kể máu lắng. CRP có ý nghĩa hơn máu lắng trong theo dõi đáp ứng với điều trị vì máu lắng có thể tăng ở bệnh nhân lớn tuổi do những nguyên nhân khác. Một số bệnh nhân có thể dừng sử dụng corticosteroid sau điều trị khoảng 2 năm hoặc thậm chí là ngắn hơn, trong khi số khác cần phải duy trì liều thấp trong vài năm. Thuốc chống viêm không steroid NSAID hiếm khi bệnh nhân không giảm được liều prednisone và thường xuyên tái phát có thể cần kết hợp thêm với methotrexate 10 tới 15mg uống một lần/tuần, nếu chức năng thận bình thường Việc sử dụng phối hợp thêm một thuốc điều trị thứ hai trong điều trị đau đa cơ dạng thấp còn đang tranh cãi do các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên cho thấy ít hoặc không mang lại hiệu quả. Các thử nghiệm sử dụng thuốc kháng yếu tố hoại tử u TNF infliximab và adalimumab và rituximab không cho thấy hiệu quả. Ở bệnh nhân lớn tuổi, bác sĩ cần theo dõi và điều trị các biến chứng do sử dụng corticosteroid ví dụ như tiểu đường, tăng huyết áp. Bệnh nhân dùng prednisone kéo dài nên được sử dụng bisphosphonate để phòng loãng xương. Đau đa cơ dạng thấp thường gặp ở người > 55 tuổi, gây đau cơ gốc chi và cứng đến 60% số bệnh nhân bị viêm động mạch tế bào khổng đoán dựa vào lâm sàng, các dấu hiệu hỗ trợ chẩn đoán như máu lắng tăng, cải thiện rõ rệt với liều corticosteroid thấp hoặc trung trị bằng corticosteroid, sau đó giảm liều khi có báo bệnh nhân về các triệu chứng của viêm động mạch tế bào khổng lồ. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da tái phát mạn tính với cơ chế bệnh sinh phức tạp liên quan đến tính nhạy cảm di truyền, rối loạn chức năng miễn dịch và biểu bì, và các yếu tố môi trường. Ngứa là triệu chứng chính; tổn thương da từ ban đỏ mức độ nhẹ đến lichen hóa dày da mức độ nặng đến chứng đỏ da. Chẩn đoán dựa vào hỏi bệnh và thăm khám. Điều trị bao gồm tư vấn về cách chăm sóc da thích hợp, tránh các tác nhân kích thích, bôi corticosteroid và thuốc ức chế miễn dịch. Kiểm soát ngứa và bội nhiễm cũng rất quan trọng. Những trường hợp nặng có thể phải điều trị ức chế miễn dịch toàn thân. Bệnh viêm da cơ địa ở trẻ em thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thành. Viêm da dị ứng chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em ở khu vực thành thị hoặc các nước có thu nhập cao và tỷ lệ mắc bệnh đã tăng lên trong 30 năm qua; có tới 20% số trẻ em và 10% số người lớn ở các nước có thu nhập cao bị ảnh hưởng. Hầu hết những người bị rối loạn phát triển nó trước 5 tuổi, nhiều người trong số họ trước 1 tuổi; tuy nhiên, viêm da dị ứng thậm chí có thể bắt đầu vào cuối tuổi trưởng thành. Giả thuyết vệ sinh chưa được chứng minh gợi ý giảm tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh sớm ở trẻ em tức là do chế độ vệ sinh sạch sẽ hơn ở nhà có thể làm tăng sự phát triển của bệnh thể tạng và tự miễn với các protein tự thân. Nhiều bệnh nhân hoặc thành viên gia đình của họ bị viêm da dị ứng cũng bị hen suyễn Hen Hen suyễn là một bệnh viêm đường hô hấp gây ra bởi một loạt kích thích dẫn đến co thắt phế quản hồi phục hoàn toàn hoặc một phần. Triệu chứng và dấu hiệu bao gồm khó thở, tức ngực, ho, thở khò... đọc thêm dị ứng và/hoặc quá mẫn cảm kiểu tức thì biểu hiện, ví dụ như viêm kết mạc dị ứng theo mùa hoặc lâu năm. Bộ ba bệnh viêm da dị ứng, viêm kết mạc dị ứng và bệnh hen suyễn được gọi là tạng dị ứng hoặc tạng cơ địa. Các đặc điểm da liễu khác của cơ địa dị ứng bao gồm khô da Khô da Xeroderma là thuật ngữ chỉ khô da không do di truyền cũng không liên quan đến bất thường hệ thống. Khô da là hậu quả của sự bong ra chậm trễ của các tế bào da trên bề mặt da, tạo ra vẩy da trắng... đọc thêm , bệnh vảy cá Vẩy cá Bệnh vẩy cá làm khô da, bong da, từ nhẹ tới nặng nhưng luôn gây khó chịu cho người mắc bệnh vẩy cá cũng có thể là dấu hiệu của bệnh hệ thống. Vẩy cá cũng có thể là dấu hiệu của bệnh toàn thân... đọc thêm /lòng bàn tay nhiều đường lẻ nghĩa là các đường da nổi rõ hơn trên lòng bàn tay, dày sừng nang lông Dày sừng nang lông Dày sừng nang lông là một rối loạn sừng hóa, trong đó các nút sừng điền vào lỗ của nang lông. Dày sừng nang lông là bệnh thường gặp. Nguyên nhân không rõ, nhưng thường có di truyền trội trên... đọc thêm , nếp gấp da dưới hốc mắt nếp gấp Dennie-Morgan, lông mày bên mỏng hơn dấu hiệu Hertoghe, không dung nạp len kích ứng và ngứa do da tiếp xúc với len, da vẽ nổi co mạch, làm trắng da khi gãi và tăng mất nước qua biểu bì ở da không bị thương tổn cũng như ở da bị thương tổn. Tất cả những yếu tố sau đây góp phần vào sự phát triển của viêm da cơ địa Yếu tố di truyềnRối loạn chức năng hàng rào thượng bìCơ chế miễn dịchCác tác nhân kích hoạt từ môi trườngCác gen liên quan đến viêm da cơ địa là những protein mã hoá biểu bì và các protein miễn dịch. Một yếu tố chính dẫn đến viêm da cơ địa là sự tồn tại đột biến mất chức năng trong gen mã hóa cho protein filaggrin ở nhiều bệnh nhân 1 Tài liệu tham khảo về sinh lý bệnh Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da tái phát mạn tính với cơ chế bệnh sinh phức tạp liên quan đến tính nhạy cảm di truyền, rối loạn chức năng miễn dịch và biểu bì, và các yếu tố môi trường. Ngứa... đọc thêm . Filaggrin là một thành phần của lớp vỏ tế bào được hóa sừng được sản sinh ra bằng cách biệt hóa các tế bào sừng. Điều quan trọng cuối cùng là xây dựng hàng rào hút ẩm của lớp sừng còn được gọi là yếu tố giữ ẩm tự nhiên. Khoảng 10% dân số châu Âu là dị hợp tử mang đột biến filaggrin mất chức năng. Sự hiện diện của các đột biến này cũng như các đột biến sao chép intragenic nhiều hơn làm tăng nguy cơ viêm da cơ địa nặng hơn và nồng độ IgE cao hơn. Các đột biến Filaggrin cũng liên quan đến dị ứng đậu phộng và hen suyễn, ngay cả khi không bị viêm da cơ địa. Những hiểu biết phân tử gần đây đưa ra những hiểu biết mới về viêm da cơ địa và cách viêm da, một dạng quá mẫn cảm chậm qua trung gian tế bào T, liên quan đến các tình trạng dị ứng với dạng quá mẫn cảm tức thì như hen suyễn và viêm mũi dị ứng sốt cỏ khô. Khiếm khuyết hàng rào biểu bì da do đột biến filaggrin gây phát sinh bệnh khô da và khuynh hướng kích ứng da. Điều này dẫn đến biểu hiện của viêm da cơ địa, không phải là phản ứng dị ứng. Ngược lại, viêm da là một dạng quá mẫn cảm chậm qua trung gian tế bào T và bao gồm thành phần chi phối Th2 trong da. Quá mẫn cảm này điều hòa giảm các peptide kháng khuẩn ví dụ beta-defensin, điều này giải thích tại sao bệnh nhân bị viêm da cơ địa dễ bị nhiễm trùng da do vi khuẩn và vi rút. Tình trạng gia tăng xâm nhập của các chất gây kích ứng và các chất dị ứng da cũng dẫn đến tình trạng viêm Th2 là chủ yếu, điều này cũng thúc đẩy sản sinh IgE và dẫn đến các chứng quá mẫn tức thì. Tuy nhiên, do cơ chế chính của viêm da cơ địa là miễn dịch qua trung gian tế bào bị trì hoãn, việc tránh các chất gây dị ứng tức thời ví dụ phấn hoa, mạt bụi thường không cải thiện được tình trạng viêm da cơ địa. Mặc dù quá mẫn loại tức thời ví dụ, hen suyễn, viêm mũi dị ứng là kết quả của khiếm khuyết hàng rào da, chúng không gây ra tình trạng viêm da cơ địa qua trung gian tế bào T. Ở những bệnh nhân có tạng dị ứng, viêm da cơ địa thường có trước viêm mũi kết mạc do dị ứng và hen suyễn. Đôi khi, trình tự này được gọi là "chặng đường dị ứng" và xảy ra do khiếm khuyết hàng rào da là sự thiếu hụt chính trong các bệnh dị ứng. 1. Brown SJ, McLean WH One remarkable molecule Filaggrin. J Invest Dermatol 1323 Pt 2751–762, 2012. doi Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm da cơ địa Bệnh viêm da cơ địa thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh, sớm nhất là 3 tháng tuổi. Ở giai đoạn cấp tính, tổn thương là các mảng hoặc mảng có vẩy, đỏ, dày, ngứa dữ dội, có thể bị xước do gãi. Ở giai đoạn mạn tính, trầy xước và chà xát tạo ra những tổn thương khô, lichen hóa trên bố tổn thương phụ thuộc vào tuổi. Ở trẻ sơ sinh, tổn thương đặc trưng xảy ra ở mặt, da đầu, cổ, mí mắt và mặt duỗi của các chi. Ở trẻ lớn và người lớn, các tổn thương xảy ra trên các mặt gấp như cổ, khuỷu tay, khoeo chân. Các tác nhân môi trường thường gặp khởi phát triệu chứng gồm Tắm hoặc giặt quá nhiềuXà phòng loại mạnh Staphylococcus aureus cư trú ở daMồ hôiVải thô và len Biến chứng của viêm da cơ địa Bệnh nhân cơ địa dị ứng cũng dễ bị nhiễm trùng da do vi rút khác ví dụ, mụn cóc thông thường Nhiễm virus Herpes simplex HSV Herpes simplex Herpes vi rút herpeses loại 1 và 2 thường gây nhiễm trùng tái phát ảnh hưởng đến da, miệng, môi, mắt và bộ phận sinh dục. Các bệnh nhiễm trùng nặng thường gặp gồm viêm não,... đọc thêm , u mềm lây U mềm lây U mềm lây có đặc trưng là các sẩn tròn, màu hồng, mịn, nhẵn bóng, tập trung thành đám, hoặc sẩn giống ngọc trai và lõm giữa có đường kính từ 2 đến 5 mm do virut molluscum gây nên, một loại virut... đọc thêm .Bệnh nhân bị viêm da cơ địa cũng có nguy cơ cao bị phản ứng dị ứng do tiếp xúc. Ví dụ, dị ứng do tiếp xúc với niken, chất gây dị ứng do tiếp xúc phổ biến nhất, phổ biến gấp đôi so với bệnh nhân không có cơ địa dị ứng. Việc sử dụng thường xuyên các sản phẩm bôi ngoài da khiến bệnh nhân tiếp xúc với nhiều chất gây dị ứng tiềm ẩn và viêm da tiếp xúc dị ứng do các sản phẩm này gây ra có thể làm phức tạp quá trình điều trị viêm da cơ địa. Đánh giá lâm sàng Bệnh da nhạy cảm ánh sángCác bệnh suy giảm miễn dịchĐỏ da toàn thân của các nguyên nhân khácMặc dù tiền sử cá nhân và/hoặc gia đình bị dị ứng và sự phân bố của các tổn thương rất hữu ích trong việc chẩn đoán bệnh viêm da cơ địa, các kiểu phân bố sau đây có thể giúp phân biệt bệnh này Bệnh vẩy nến thường dễ nhận biết bởi các mảng ban đỏ, dày và có vẩy có gianh giới rõ ràng. Nó thường là ở mặt duỗi hơn là ở mặt gấp và có thể bao gồm các dấu hiệu điển hình ở móng tay không phổ biến trong viêm da cơ địa ví dụ đốm dầu, . thường ảnh hưởng nhất ở mặt ví dụ các nếp nhăn hai bên mũi và má, lông mày, vùng trán giữa hai lông mày, da đầu.Viêm da đồng xu không bị ở mặt gấp, ít lichen hóa. Tuy nhiên, có thể xuất hiện trong viêm da cơ địa [viêm da cơ địa thể đồng tiền].Chứng đỏ da do viêm da cơ địa có thể khó phân biệt với chứng đỏ da do các rối loạn khác ở da. Không có xét nghiệm nào chẩn đoán xác định viêm da cơ địa. Tuy nhiên, xét nghiệm dị ứng loại I chích, cào xước và xét nghiệm trong da hoặc đo nồng độ IgE đặc hiệu với chất gây dị ứng và nồng độ IgE toàn phần có thể giúp xác nhận tạng dị ứng. Việc nuôi cấy S. aureus không được thực hiện thường xuyên nhưng có thể giúp xác định mức độ nhạy cảm với kháng sinh toàn thân khi nghi ngờ có bệnh chốc lở ví dụ, với các lớp vẩy hơi vàng. 1. Eichenfield LF, Tom WL, Chamlin SL, et al Guidelines of care for the management of atopic dermatitis Section 1. Diagnosis and assessment of atopic dermatitis. J Am Acad Dermatol 702338–351, 2014 doi Chăm sóc hỗ trợ bao gồm tư vấn về cách chăm sóc da phù hợp và tránh các yếu tố gây kích thíchChống ngứaCorticosteroid tại chỗCác thuốc ức chế calcineurin bôi tại chỗCrisaborole bôi tại chỗThuốc ức chế Janus kinase JAK dạng bôi ví dụ ruxolitinibQuang trị liệu, đặc biệt là tia cực tím dải hẹp BThuốc ức chế miễn dịch toàn thânThuốc sinh học đường toàn thânĐiều trị bội nhiễmĐiều trị viêm da cơ địa hiệu quả nhất khi giải quyết các quá trình sinh lý bệnh tiềm ẩn. Tư vấn về cách chăm sóc da phù hợp và tránh các tác nhân gây khởi phát giúp bệnh nhân giải quyết các khiếm khuyết bên dưới của hàng rào da. Gãi các tổn thương ngứa thường làm tăng ngứa và do đó gãi nhiều hơn. Phá vỡ chu kỳ ngứa-gãi có vai trò quan trọng. Các đợt bùng phát viêm có thể được hạn chế bằng thuốc ức chế miễn dịch tại chỗ, đèn chiếu, và nếu cần, thuốc ức chế miễn dịch toàn thân. Hầu hết tất cả các bệnh nhân bị viêm da cơ địa đều có thể điều trị ngoại trú, nhưng những bệnh nhân bị bội nhiễm nặng hoặc có chứng đỏ da có thể phải nhập viện. Chăm sóc da toàn thân nên tập trung vào các nguồn gây kích ứng da phổ biến nhất – rửa quá nhiều cũng như dùng xà phòng mạnh Hạn chế tần suất và thời gian tắm rửa chỉ nên dùng vòi hoa sen/bồn tắm một lần mỗi ngày; có thể thay bồn tắm bằng bọt biển để giảm số ngày tắm toàn thân Giới hạn nhiệt độ nước tắm ở mức âm ấmTránh chà xát quá mạnh và thay vào đó vỗ nhẹ cho da khô sau khi tắm sen/tắm bồnBôi kem dưỡng ẩm thuốc mỡ hoặc kem – các sản phẩm có chứa ceramide đặc biệt hiệu quảĐối với bội nhiễm da ví dụ, khi đóng vẩy màu vàng gợi ý bệnh chốc lở, tắm bằng thuốc tẩy pha loãngThuốc kháng histamine dạng uống có thể giúp làm giảm ngứa qua tác dụng an thần. Các lựa chọn bao gồm hydroxyzine uống 25 mg 3 lần/ngày hoặc 4 lần một ngày trẻ em 0,5 mg/kg mỗi 6 giờ hoặc 2 mg/kg một lần khi đi ngủ và diphenhydramine ví dụ 25 đến 50 mg, tốt nhất là trước khi đi ngủ để tránh tác dụng an thần trong ngày. Thuốc kháng histamine an thần mức thấp hoặc không gây khó chịu, chẳng hạn như loratadine 10 mg một lần/ngày, fexofenadine 60 mg 2 lần/ngày hoặc 180 mg một lần/ngày, hoặc cetirizine 5 đến 10 mg một lần/ngày, có thể hữu ích, nhưng hiệu quả của thuốc vẫn chưa được xác định. Doxepin thuốc chống trầm cảm ba vòng cũng có tác dụng ngăn chặn thụ thể H1 và H2 25 đến 50 mg uống vào giờ đi ngủ cũng có thể giúp ích, nhưng việc sử dụng nó không được khuyến cáo cho trẻ em < 12 căng thẳng cảm xúc rất có lợi và giúp phá vỡ chu kỳ ngứa gãi. Căng thẳng có thể ảnh hưởng đến gia đình ví dụ, bị một đứa trẻ đang khóc đánh thức cũng như bệnh nhân ví dụ, không thể ngủ được vì ngứa. Thay đổi chế độ ăn nhằm loại bỏ tiếp xúc với thực phẩm gây dị ứng nói chung là không cần thiết, không hiệu quả và làm tăng căng thẳng một cách không cần thiết. Viêm da cơ địa do dị ứng thực phẩm chỉ rất hiếm khi xảy tay nên được cắt ngắn để tránh gãi và nhiễm trùng thứ phát. Các corticosteroid tại chỗ là lựa chọn chính trong điều trị. Kem hoặc thuốc mỡ dùng 2 lần/ngày có hiệu quả đối với hầu hết các bệnh nhân có mức độ bệnh nhẹ hoặc vừa. Corticosteroid có hiệu lực mức thấp đến trung bình thường kiểm soát tình trạng viêm da, nhưng để giải quyết tình trạng da bị viêm mạn tính, da bị lichen hóa thường cần phải dùng corticosteroid hiệu lực cao. Các tác dụng bất lợi trên da của corticosteroid tại chỗ, chẳng hạn như mỏng da, rạn da và nhiễm trùng da, có thể xảy ra tùy thuộc vào hiệu lực của corticosteroid được sử dụng, thời gian sử dụng và vị trí da được sử dụng. Cần tránh sử dụng rộng rãi, kéo dài corticosteroid có hiệu lực cao, đặc biệt ở trẻ sơ sinh, để tránh ức chế tuyến thượng thận. Nên ngừng sử dụng corticosteroid khi tình trạng viêm da đã được kiểm soát và tuyệt đối không được sử dụng corticosteroid để ngăn ngừa bệnh tái phát. Corticosteroid toàn thân thường giúp giảm đau khẩn cấp tốt, nhưng nên tránh sử dụng lâu dài do nhiều tác dụng phụ của thuốc này. Do viêm da cơ địa có xu hướng bùng phát khi ngừng sử dụng corticosteroid toàn thân, các phương pháp điều trị khác thường cần đến để kiểm soát việc cắt giảm và ngừng sử dụng corticosteroid toàn thân. Tacrolimus và pimecrolimus dạng bôi là những thuốc ức chế calcineurin. Các thuốc này là thuốc ức chế tế bào T và có thể được sử dụng cho viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình hoặc khi các tác dụng phụ của corticosteroid là một vấn đề đáng lo ngại. Mỡ tacrolimus hoặc kem pimecrolimus được sử dụng 2 lần/ngày. Bỏng rát hoặc châm chích sau khi bôi thuốc là thoáng qua và giảm sau vài ngày. Bốc hỏa ít gặp. Crisaborole là một loại thuốc ức chế phosphodiesterase-4 dạng bôi. Thuốc mỡ Crisaborole 2% có thể được sử dụng cho bệnh viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình trên bệnh nhân từ 2 tuổi trở lên. Bôi crisaborole ở các vùng eczema 2 lần/ngày. Không thể sử dụng trên lông mi Không thể sử dụng trên lông mi Bỏng rát hoặc châm chích sau khi bôi thuốc là thoáng qua và giảm sau vài ngày. Ruxolitinib là một loại thuốc ức chế Janus kinase JAK. Ruxolitinib dạng kem 1,5% có thể được sử dụng để điều trị trong thời gian ngắn và không liên tục cho bệnh viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình trên bệnh nhân có khả năng miễn dịch, từ 12 tuổi trở lên, không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các liệu pháp điều trị tại chỗ theo đơn khác hoặc khi không nên sử dụng các liệu pháp đó. Bôi ruxolitinib dưới dạng một lớp mỏng lên tới 20% diện tích bề mặt cơ thể, 2 lần/ngày trong tối đa 8 tuần. Liệu pháp quang trị liệu với tia cực tím B UVB dải hẹp rất hữu ích đối với viêm da cơ địa trên diện rộng, đặc biệt khi việc chăm sóc da và điều trị tại chỗ thích hợp không kiểm soát được tình trạng viêm. Bởi vì UVB dải hẹp có hiệu quả cao hơn nhiều so với UVB dải rộng được sử dụng trước đây, liệu pháp psoralen cộng với UVA PUVA hiếm khi được sử dụng nữa. Liệu pháp quang trị liệu với UVB dải hẹp đã không được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư da, nhưng điều này vẫn còn là mối lo ngại, đặc biệt khi sử dụng cho trẻ em hoặc trong thời gian dài. Nguy cơ này cần được cân nhắc với nguy cơ của các phương pháp điều trị toàn thân khác sau khi thất bại trong việc chăm sóc da và điều trị tại chỗ thích hợp. Nếu không có sẵn đèn chiếu tại phòng mạch hoặc quá bất tiện, thì đèn chiếu tại nhà là một giải pháp thay thế hiệu quả. Một số thiết bị đèn chiếu tại nhà có các tính năng có thể lập trình cho phép các chuyên gia giới hạn và giám sát việc sử dụng thiết bị của bệnh nhân. Phơi nắng tự nhiên là một giải pháp thay thế khi không có phương pháp chiếu đèn. Thuốc ức chế miễn dịch toàn thân, chẳng hạn như cyclosporine, mycophenolate, methotrexate và azathioprine, ức chế chức năng tế bào T. Những loại thuốc này được chỉ định cho bệnh viêm da cơ địa lan rộng, khó chữa hoặc gây tàn tật mà không giảm bớt bằng liệu pháp bôi ngoài da và liệu pháp quang học. Việc sử dụng chúng phải được cân bằng với nguy cơ tác dụng phụ, đặc biệt là khi sử dụng lâu và abrocitinib là thuốc ức chế miễn dịch đường toàn thân mới nhất để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng trên bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên, không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các thuốc đường toàn thân khác, bao gồm cả thuốc sinh học hoặc khi không nên sử dụng các liệu pháp đó. Cả hai đều ức chế JAK 1. Nguy cơ bao gồm nhiễm trùng nghiêm trọng, tử vong, ung thư, biến cố tim mạch và huyết khối. Hai thuốc ức chế miễn dịch đường toàn thân nhắm mục tiêu sinh học hiện có để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến là một kháng thể IgG4 đơn dòng hoàn toàn của con người ngăn chặn tín hiệu của IL-4 và IL-13, cả hai cytokine tiền viêm, trong viêm da cơ địa. Thuốc có sẵn để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng ở bệnh nhân từ 6 tuổi trở lên và được khuyên dùng cho những bệnh nhân không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các phương pháp điều trị khác. Dupilumab được tiêm dưới da với liều tấn công 600 mg, tiếp theo là 300 mg, 2 tuần một lần; đối với bệnh nhân cân nặng < 60 kg, liều tấn công 400 mg, sau đó là 200 mg, hai tuần một lần. Các tác dụng bất lợi phổ biến nhất là phản ứng tại chỗ tiêm, viêm kết mạc, viêm bờ mi, viêm giác mạc, ngứa mắt, herpes miệng, các bệnh nhiễm trùng khác do vi rút herpes simplex, khô mắt và tăng bạch cầu ái là một kháng thể đơn dòng hoàn toàn của người chống lại các thụ thể IL-13 alpha 1 và alpha 2. Thuốc có sẵn để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng ở người lớn không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các liệu pháp tại được tiêm dưới da với liều tấn công 600 mg, sau đó là 300 mg hai tuần một tác dụng bất lợi phổ biến nhất là nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm kết mạc, phản ứng tại chỗ tiêm và tăng bạch cầu ái toan. Doxycycline hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole là lựa chọn ban đầu hiệu quả cho loại kháng sinh đường toàn thân vì MRSA thường nhạy cảm nhất với những loại kháng sinh này. Tuy nhiên, nên nuôi cấy vi khuẩn kèm theo kiểm tra kháng thuốc trước khi bắt đầu dùng kháng sinh toàn thân vì không thể dự đoán được tình trạng kháng thuốc. Mupirocin nhỏ mũi được khuyến cáo cho những bệnh nhân mang vi khuẩn Staphylococcus aureus trong mũi, một nguồn tiềm ẩn của bệnh chốc lở tái dạng herpes được điều trị bằng thuốc kháng vi rút đường toàn thân ví dụ acyclovir, valacyclovir. Liều lượng của acyclovir là 10 đến 20 mg/kg đường tĩnh mạch, 8 giờ một lần ở trẻ sơ sinh; trẻ lớn hơn và người lớn bị bệnh nhẹ có thể dùng 200 mg uống x 5 lần/ngày. Thương tổn mắt được coi là một tình trạng cấp cứu về nhãn khoa, nếu nghi ngờ bị, cần phải tư vấn nhãn khoa. Viêm da dị ứng ở trẻ em thường giảm sau 5 tuổi, mặc dù bệnh nặng thường xảy ra ở trẻ vị thành niên và ở độ tuổi trưởng thành. Trẻ em gái và bệnh nhân mắc bệnh nặng, khởi phát sớm, tiền sử gia đình, bị viêm mũi dị ứng hoặc hen suyễn kèm theo có nhiều khả năng bị bệnh kéo dài. Ngay cả ở những bệnh nhân này, viêm da cơ địa thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thành. Viêm da cơ địa có thể để lại di chứng tâm lý lâu dài khi trẻ em phải đối mặt với những thách thức khi sống chung với căn bệnh da liễu có thể nhìn thấy, đôi khi gây tàn tật trong những năm trưởng thành của trẻ. Viêm da cơ địa là phổ biến, đặc biệt ở các nước phát triển, ảnh hưởng đến 20% số trẻ em và 10% số người lớn. Một khiếm khuyết hàng rào da được xác định về mặt di truyền dẫn đến tình trạng viêm nhiễm do các chất gây kích ứng da và do đó là viêm da cơ tác nhân gây kích hoạt phổ biến bao gồm rửa và tắm quá dấu hiệu phổ biến thay đổi theo độ tuổi và bao gồm các mảng và đám ban đỏ có vẩy, ngứa và lichen hóa ở hố trước khuỷu hố khoeo và trên mí mắt, cổ và cổ nhiễm đặc biệt nhiễm S. aureus, eczema herpeticum là phổ da cơ địa thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thuốc điều trị bậc một gồm chất làm ẩm, corticosteroid tại chỗ, và thuốc kháng histamine nếu cần để giảm với bệnh không đáp ứng với điều trị tại chỗ, hãy xem xét liệu pháp quang trị liệu hoặc thuốc ức chế miễn dịch toàn thân. Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này. Viêm cơ, viêm đa cơ và viêm da cơ là các bệnh lý của mô liên kết đặc trưng bởi tình trạng viêm cơ. Các bệnh cơ do viêm vô căn là một nhóm các bệnh tự miễn mạn tính ảnh hưởng chủ yếu đến các cơ ở gốc chi. Các thể bệnh hay gặp nhất là viêm da cơ, viêm đa cơ, bệnh cơ tự miễn hoại tử và viêm cơ thể vùi lẻ tẻ. Tổng quanViêm đa cơ và viêm da cơ là các bệnh lý của mô liên kết đặc trưng bởi tình trạng viêm cơ..Mặc dù bệnh viêm da cơ ảnh hưởng đến da và các cơ, nó cũng ảnh hưởng cả các thành phần khác trong cơ thể như khớp, thực quản, phổi và virus dính líu với các virus sao chép ngược ở người như HIV và HTLV-I, các virus sao chép ngược ở khỉ và các Coxsackievirus Phân loạiCó thể chia các tình trạng viêm da cơ và viêm đa cơ thành 7 phân nhóm nhỏ dựatheo căn nguyênViêm đa cơ vô căn nguyên phát ở người trưởng da cơ vô căn ở người trưởng da cơ hay viêm cơ thanh thiếu niên kèm viêm mạch hoại đa cơ đi kèm các bệnh lý mô liên đa cơ và viêm da cơ liên quan với bệnh lý ác cơ thể vùi IBM.Các thể bệnh viêm cơ khác ví dụ viêm cơ tăng eosinophil, viêm cơ canxi hóa, viêm cơ khu trú, viêm cơ tế bào khổng lồ. Đối tượng nguy cơViêm đa cơ thường xuất hiện ở độ tuổi từ 30-60 tuổi và một đỉnh nhỏ hơn ở khoảng 15 da cơ có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Đỉnh tuổi khởi phát ở người trưởng thành vào khoảng 50 tuổi, và đỉnh tuổi khởi phát ở trẻ em tầm khoảng 5-10 da cơ và viêm đa cơ gặp ở nữ nhiều hơn gấp 2 lần so với ở nam. 2. Viêm đa cơ Dấu hiệuBệnh cơ do viêm khởi phát từ vài tuần đến vài tháng và tiến triển từ cơ lan tỏa ưu thế các cơ gốc cơ gốc chi làm người bệnh khó khăn khi đứng lên từ tư thế ngồi trên ghế, khó leo cầu thang, khó khăn khi nâng đồ vật hay khi chải tóc. Mỏi cơ, đau cơ và vọp bẻ cũng có thể hiện ngọn chi không bị ảnh hưởng, và các động tác tinh vi của bàn tay như cài nút áo, viết, điều khiển bàn phím hay chơi piano chỉ bị ảnh hưởng ở giai đoạn trễ của cơ vùng hầu họng gây khó cơ có thể thay đổi từ tuần này qua tuần khác, từ tháng này sang tháng 1/3 bệnh nhân có đau. Không có phát ban ở ghi nhận tiền sử gia đình về các bệnh lý thần kinh cơ, không có bằng chứng của các rối loạn nội tiết hay tiền sử tiếp xúc với các độc chất có thể gây bệnh Triệu chứngViêm đa cơ gây tình trạng yếu cơ. Thường bệnh nhân không than đau, dù có một số ít than nhức cơ và bị vọp cơ gốc chi và không ảnh hưởng cơ ngọn chi cho đến khi bệnh tiến cơ quanh nhãn cầu không bị ảnh hưởng, các cơ vùng mặt chỉ bị ảnh hưởng trong các trường hợp cổ yếu và khó khăn khi giữ đầu thẳng cơ có thể có, còn phản xạ gân cơ, đáp ứng bàn chân gập và cảm giác bình bắp có thể bị đau khi sờ nắn và có thể có cảm giác sần Chẩn đoán cận lâm sàngCreatine kinase CK có thể tăng gấp 50 lần so với giá trị bình thường. CK hiếm khi bình thường khi bệnh đang giai đoạn hoạt động và mức CK thường là một chỉ điểm tốt cho tình trạng hoạt động của 20% bệnh nhân viêm đa cơ có kháng thể anti-Jo-1. Chúng chỉ điểm một tiên lượng xấu với bệnh phổi kẽ xuất hiện trong 1⁄2 các trường hợp.Các men enzyme khác cũng tăng trong viêm đa cơ bao gồm aldolase, SGOT, SGPT và lactate. dehydrogenase LDH. Nếu SGOT cao hơn SGPT, một nguyên nhân do cơ nên được nghĩ đoán được thiết lập dựa trên điện cơ EMG và được khẳng định bằng sinh thiết nguyên ung thư 125 CA 125 và kháng nguyên ung thư 19-9 CA 19-9 có thể là các dấu ấn hữu ích cho nguy cơ bị các bệnh lý ác sát các tự kháng thể như kháng thể đặc hiệu viêm cơ myositis-specific antibody – MSA, các tự kháng thể liên quan viêm cơ myositis-associated autoantibodies – MAA có thể hữu ích trong việc chẩn đoán phân biệt với các tình trạng ác tính tiềm ẩn. Yếu cơ vùng hầu họng gây khó nuốt là một trong những dấu hiệu của viêm đa cơ Chẩn đoán phân biệtViêm đa cơ là một chẩn đoán loại trừ và các chẩn đoán khác cần cân nhắc bao gồmBệnh thần kinh cơ di nội tiết bao gồm nhiễm độc giáp và bệnh hội chứng kém hấp thu, nghiện rượu, ung thư, viêm mạch, bệnh u hạt, sarcoidosis hoặc tiếp xúc với thuốc hay độc tố ảnh hưởng đến cơ. 3. Viêm da cơ Dấu hiệuViêm da cơ ảnh hưởng đến cả trẻ em và người lớn. Kiểu yếu cơ giống như trong bệnh viêm đa cơ, nhưng cũng có những điểm khác nhưPhát triệu chứng toàn thân với sốt, đau khớp, mệt mỏi và sụt cân. Nó có thể giống với xơ cứng bì ở hiện tượng Raynaud và chứng khó bệnh tim có thể gặp bao gồm khiếm khuyết dẫn truyền nhĩ thất, nhịp tim nhanh và bệnh cơ tim giãn và nhiễm trùng đường tiêu thể yếu các cơ ngực nhưng cũng có thể có bệnh phổi kẽ ở 30-50% trường em có khuynh hướng có nhiều đặc điểm không liên quan cơ hơn, đặc biệt là loét và nhiễm trùng đường tiêu Triệu chứngPhát ban bao gồm hồng ban màu xanh tím ở mí mắt trên với phù quanh hốc mắt, phát ban đỏ vùng mặt, thân trên và các mảng vảy màu đỏ tím ở mặt duỗi của các khớp và ngón tay. Viêm loét mạch máu và vôi hóa mô dưới da có thể xảy ban có thể ảnh hưởng đến đầu gối, vai, lưng và ngực trên, và cũng có thể bị trầm trọng hơn bởi ánh sáng mặt tổn thương da có thể tạo vảy, tăng hoặc giảm sắc tố da và làm da trở nên sáng các cuộn mao mạch ở giường móng là đặc điểm điển hình của viêm da cơ. Các lớp biểu bì có thể không đều và dày lên, mặt lòng bàn tay và mặt bên của ngón tay có thể trở nên thô và cơ gốc chi và có thể thay đổi từ nhẹ đến trầm trọng. Cảm giác được bảo tồn và phản xạ gân cơ bình thường, trừ khi có teo cơ đau cơ và đau có khuynh hướng xuất hiện Chẩn đoán cận lâm sàngMức độ tăng creatine kinase CK là không đáng tin cậy mặc dù nó có thể tăng rất SGPT, LDH, và aldolase cũng có thể tự kháng thểKháng thể kháng nhân antinuclear antibody – ANA dương tính hay gặp ở các bệnh nhân viêm da thể Anti-Mi-2 là kháng thể đặc hiệu cho viêm da cơ nhưng chỉ tìm thấy ở 25% các trường kháng thể Anti-Jo-1 hay gặp ở bệnh nhân viêm đa cơ hơn ở bệnh nhân viêm da cơ. Chúng có liên quan với bệnh phổi kẽ, hiện tượng Raynaud và viêm không giúp ích nhiều cho chẩn đoán nhưng có thể giúp theo dõi bệnh và hướng dẫn chọn vị trí tốt để làm sinh thiết cơ có thể có ích, nhưng 15% trường hợp có thể có điện cơ bình thường. Điện cơ cũng có thể hướng dẫn chọn vị trí phù hợp để làm sinh thiết thiết cơ có thể giúp chẩn đoán Chẩn đoán phân biệtViêm da cơ dễ chẩn đoán hơn vì phát ban và vôi hóa dưới da là điển bệnh lupus ban đỏ hệ thống SLE, da trên các đốt ngón bị ảnh hưởng và da trên khớp bàn ngón không bị. Trong viêm da cơ thì ngược da cơ có thể trùng lặp với bệnh xơ cứng hệ thống, viêm khớp dạng thấp và hội chứng Sjogren nhưng yếu cơ nhiều Các bệnh liên quanViêm đa cơ và viêm da cơ có thể liên quan đến các bệnh tự miễn khác như nhược cơ, viêm giáp Hashimoto, xơ cứng hệ thống và bệnh tăng globulin đại phân tử các trường hợp viêm đa cơ và cả viêm da cơ, có thể cần phải tìm kiếm một khối u ác tính tiềm đa cơ và đặc biệt là viêm da cơ có thể là một phần của hội chứng cận ung paraneoplastic.Từ 10% đến 20% bệnh nhân bị viêm da cơ có u tân nhân cao tuổi bị viêm da cơ thường có khối u ác thư vú, ung thư phổi, ung thư biểu mô buồng trứng và ung thư biểu mô dạ dày thường liên quan Sinh thiết cơ có thể giúp chẩn đoán chính xác bệnh viêm da cơ Điều trịCác điều trị không dùng thuốcNên sử dụng kem chống khích hoạt động thể chất với mục đích duy trì sức cơ, bệnh nhân nên được tư vấn bởi một nhà vật lý trị liệu và hoạt động trị nhân nên được đánh giá chức năng nuốt và một nhà trị liệu ngôn ngữ và lời nói có thể giúp khắc phục những khó khăn khi dõi creatine kinase CK và đáp ứng lâm sàng, nhưng có khi điều trị có thể cải thiện mức CK mà không cải thiện lâm thuốcMặc dù các liệu pháp ức chế miễn dịch và điều hòa miễn dịch thường xuyên được sử dụng, chế độ điều trị tối ưu vẫn chưa rõ ràng. Thiếu các nghiên cứu chất lượng cao đánh giá hiệu quả và độc tính của thuốc ức chế miễn dịch trong viêm cơ. Bắt đầu điều trị sớm là điều cần là loại thuốc quan trọng nhất. Trong trường hợp nhẹ, có thể chỉ cần dùng steroid tại chỗ. Trong trường hợp bệnh nặng hơn, cần sử dụng steroid toàn thân liều cao và giảm liều dần. Sự cải thiện thường rõ ràng vào tháng thứ hai hoặc thứ ba. Các biện pháp phòng ngừa thông thường phải được thực hiện khi sử dụng steroid liều cao trong thời gian tác nhân sinh học bao gồm các chất đối vận alpha yếu tố hoại tử mô, immunoglobulin và rituximab tiêm tĩnh mạch, đã được sử dụng với các mức độ thành công khác nhau để điều trị viêm da cơ. Bệnh nhân có kháng thể chống Jo-1 cần ức chế miễn dịch lâu dài. Đối với bệnh phổi, chế độ phối hợp tích cực bao gồm cyclosporin A hoặc tacrolimus với cyclophosphamide được khuyến cáo nên thêm vào cùng trên kết quả phân tích của nhiều thử nghiệm lâm sàng trên thế giới, ý kiến các chuyên gia, Trung tâm bệnh cơ Châu Á và Châu đại dương AOMC đã đưa ra một số khuyến cáo điều trị như sauLựa chọn hàng thứ nhất chọn hàng thứ hai azathioprine, methotrexate, mycophenolate mofetil. Có thể khởi đầu cùng lúc với steroid hoặc khởi đầu khi thất bại với steroid sau 2-4 chọn hàng thứ ba cyclophosphamide, tacrolimus, lựa chọn khácIVIG một số trường hợp được dùng như một lựa chọn điều trị đầu tay, một số khác thì được lựa chọn điều trị khi thất bại với steroid hay viêm cơ tái huyết tương, Rituximab cũng là các lựa chọn điều trị trong viêm cơ tái phát. Thuốc Steroid là loại thuốc quan trọng nhất được lựa chọn hàng thứ nhất trong điều trị bệnh viêm cơ, viêm đa cơ, viêm da cơ Biến chứngLoét đường tiêu hóa có thể gây ra tiêu phân đen, ói máu. Nhồi máu ruột có thể xảy ra, đặc biệt là trong viêm da da cơ có thể gây vôi hóa dưới da làm loét da, nhiễm trùng và sẹo viêm da cơ và viêm đa cơ đều có liên quan đến tăng nguy cơ ác da cơ cũng liên quan đến khuyết tật nhĩ thất, nhịp tim nhanh, bệnh cơ tim giãn nở, co rút khớp và liên quan đến phổi do yếu cơ ngực, bệnh phổi kẽ.Các biến chứng khác của viêm đa cơ bao gồmBệnh phổi kẽ, viêm phổi do hítCác block dẫn truyền ở tim, rối loạn nhịp tim, suy tim sung huyết, viêm màng ngoài tim, nhồi máu cơ thở, kém hấp chứng của liệu pháp steroid – ví dụ như loãng xương, bệnh cơ do Tiên lượngTiên lượng của các bệnh cơ do viêm vô căn rất thay liên quan đến bệnh lý ác tính cho thấy tiên lượng phục hồi kém và tăng khả năng tử vong. Nhìn chung, tự thoái lui mà không dùng thuốc là rất hiếm, ngoại trừ thể viêm da cơ thanh thiếu nghiên cứu cho thấy chỉ 20% đến 40% các bệnh nhân viêm da cơ và viêm đa cơ được điều trị sẽ thoái lui bệnh, trong khi 60-80% sẽ tái phát nhiều lần hoặc tiếp diễn mạn lệ tử vong cao gấp 2-3 lần so với dân số chung. Ung thư, biến chứng phổi, tim và nhiễm trùng là các nguyên nhân tử vong thường gặp nhất. Các yếu tố tiên lượng xấu gồm tuổi, giới nam, người da màu, tiến trình bệnh kéo dài, có triệu chứng tim, có nuốt khó, có bệnh lý ác tính và có các kháng thể đặc hiệu viêm cơ myositis-specific antibodies trong huyết thanh bao gồm các kháng thể anti-Ro52 và anti-Jo1 cùng tồn tại, sự hiện diện của kháng thể anti signal recognition particle, anti-155/140, và anti-CADM-140.Kháng thể anti-155/140 có liên quan đến tình trạng ác tại ở Việt Nam đã có thể làm đầy đủ các xét nghiệm chẩn đoán bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, kể cả sinh thiết cơ và các xét nghiệm tìm kháng thể. Các phương pháp điều trị bệnh đã được công nhận trên thế giới cũng như các thuốc mới được khuyến cáo dựa theo vài nghiên cứu gần đây cũng đã được chúng ta bước đầu sử dụng để điều trị những trường hợp bệnh viêm đa cơ, viêm da cơ nặng và kháng thuốc. Tuy viêm da cơ và viêm đa cơ là các thể bệnh có thể điều trị được nhưng việc điều trị bệnh còn rất nhiều khó viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Bệnh viêm đa cơ dermatomyositis Chẩn đoán, điều trị Công dụng thuốc nhỏ mắt Sanlein Thuốc HCQ trong điều trị da liễu Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Lê Dương Tiến - CK Nội cơ xương khớp, Khoa Khám bệnh & Nội khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Viêm cơ là tình trạng viêm xảy ra tại vùng cơ bắp. Yếu, sưng và đau là những triệu chứng viêm cơ phổ biến nhất. Nguyên nhân gây viêm cơ bao gồm nhiễm trùng, chấn thương, bệnh tự miễn và tác dụng phụ của thuốc. Điều trị viêm cơ thay đổi tùy theo nguyên nhân gây bệnh. 1. Viêm cơ là gì? Viêm cơ là tình trạng viêm tại các tổ chức cơ bắp gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như nhiễm trùng, chấn thương, tình trạng tự miễn và tác dụng phụ của thuốc. Triệu chứng đặc trưng của viêm cơ là yếu, sưng và đau cơ. Các phương pháp điều trị viêm cơ là khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. 2. Các loại nhiễm trùng gây viêm cơ Bệnh tự miễn Tình trạng viêm toàn thân có thể gây viêm cơ, trong đó có bệnh tự miễn - hệ miễn dịch tấn công vào các mô cơ quan của chính nó. Một số bệnh có khả năng gây viêm cơ nghiêm trọng bao gồmViêm da cơ địaViêm đa cơViêm cơ thể Inclusion body myositis IBMMột số bệnh tự miễn khác có xu hướng gây ra các dạng viêm cơ nhẹ hơn, bao gồmLupusXơ cứng bìViêm khớp dạng thấpBệnh tự miễn thường là nguyên nhân gây viêm cơ nghiêm trọng nhất, cần điều trị lâu dài. Viêm da cơ địa có thể gây ra tình trạng viêm cơ Nhiễm trùng Nhiễm vi - rút là tình trạng nhiễm trùng phổ biến nhất gây ra viêm cơ. Ngoài ra, vi khuẩn, nấm hoặc các sinh vật khác cũng có khả năng gây ra viêm cơ. Vi - rút hoặc vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp vào mô cơ hoặc giải phóng các chất gây tổn thương sợi cơ. Một số bệnh do vi - rút gây ra như cúm, cảm lạnh thông thường, HIV là một vài trong số các bệnh có khả năng gây viêm cơ. Thuốc Thuốc chữa bệnh và một số loại chất khác có thể là nguyên nhân gây ra tổn thương cơ tạm thời. Thuốc gây viêm cơ hoặc bệnh về cơ bao gồmStatinColchicinePlaquenil hydroxychloroquineAlpha-interferonCocaineRượuBệnh về cơ có thể xảy ra ngay sau khi bắt đầu dùng thuốc, hoặc có thể xảy ra sau khi dùng thuốc trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Đôi khi nó được gây ra bởi sự tương tác giữa hai loại thuốc khác nhau. Viêm cơ nghiêm trọng do thuốc là rất hiếm. Chấn thương Tập thể dục cường độ cao có thể dẫn đến đau, sưng và yếu cơ trong nhiều giờ hoặc vài ngày sau khi tập luyện. Các triệu chứng trên là dấu hiệu của viêm cơ. Các triệu chứng viêm cơ sau khi tập thể dục hoặc chấn thương sẽ giảm đi nhanh chóng sau khi nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe. Tiêu cơ vân Tiêu cơ vân xảy ra khi cơ bắp bị tổn thương trong thời gian ngắn. Đau cơ, yếu và sưng là triệu chứng của tiêu cơ vân. Nước tiểu cũng có thể chuyển sang màu nâu sẫm hoặc đỏ. 3. Triệu chứng viêm cơ Triệu chứng chính của viêm cơ là yếu cơ có thể nhận thấy qua thăm khám lâm sàng hoặc các xét nghiệm. Đau cơ có thể có hoặc không. Viêm da cơ, viêm đa cơ và một số tình trạng viêm khác có xu hướng gây yếu cơ dần dần và tiến triển nặng sau vài tuần hoặc vài tháng. Các vị trị yếu cơ thường gặp là cổ, vai, hông và lưng. Yếu cơ có thể gây té ngã và khó khăn khi đứng dậy khỏi ghế hoặc sau khi ngã. Các triệu chứng khác có thể gặp trong viêm cơ bao gồmPhát banMệt mỏiDa vùng tay dày lênKhó nuốtKhó thởNhững người bị viêm cơ do vi - rút thường có các triệu chứng nhiễm vi - rút như sổ mũi, sốt, ho và đau họng, hoặc buồn nôn và tiêu chảy. Đa số các triệu chứng nhiễm vi - rút có thể biến mất vài ngày hoặc vài tuần trước khi các triệu chứng viêm cơ bắt số ít người có triệu chứng đau trong bệnh viêm cơ. Hầu hết các cơn đau cơ không phải do tình trạng viêm mà do chấn thương, căng thẳng, hoặc các bệnh thông thường như cảm lạnh và cúm. Những cơn đau cơ thông thường này được gọi là chứng đau cơ. Bác sĩ nghi ngờ viêm cơ dựa trên triệu chứng yếu cơ hoặc các dấu hiệu khác liên quan đến viêm cơ. Các xét nghiệm chẩn đoán viêm cơ bao gồmXét nghiệm máu Nồng độ enzyme cơ cao, chẳng hạn như creatine kinase cao, là dấu hiệu chỉ điểm của viêm cơ. Các xét nghiệm khác như xét nghiệm máu kiểm tra các kháng thể bất thường giúp xác định tình trạng tự miễn MRI Một máy quét sử dụng nam châm công suất cao và máy tính tạo ra hình ảnh của các cơ. Quét MRI có thể giúp xác định các khu vực của viêm cơ và thay đổi trong cơ theo thời Bằng cách chèn các điện cực kim vào cơ bắp, bác sĩ có thể kiểm tra phản ứng của cơ với tín hiệu thần kinh điện. EMG có thể xác định các cơ bị yếu hoặc bị tổn thương do viêm thiết cơ Đây là xét nghiệm chính xác nhất để chẩn đoán viêm cơ. Bác sĩ xác định yếu cơ bằng cách rạch một đường nhỏ và lấy một mẫu mô cơ nhỏ để xét nghiệm. Sinh thiết cơ là xét nghiệm chẩn đoán cuối cùng ở hầu hết những người bị viêm cơ. Xét nghiệm máu là một trong những phương pháp chẩn đoán bệnh viêm cơ 5. Điều trị viêm cơ Điều trị viêm cơ thay đổi tùy theo nguyên nhân. Tình trạng viêm gây viêm cơ có thể cần điều trị bằng thuốc ức chế hệ miễn dịch, bao gồmPrednisoneAzathioprine ImuranMethotrexateViêm cơ do nhiễm trùng thường là do vi - rút, và không có phương pháp điều trị cụ thể. Viêm cơ do vi khuẩn là không phổ biến và thường cần dùng kháng sinh để ngăn ngừa sự lây lan của vi khuẩn đe dọa đến tính dù tiêu cơ vân hiếm khi xảy ra do viêm cơ, nhưng một khi xảy ra có thể gây tổn thương thận vĩnh viễn. Những người bị tiêu cơ vân phải nhập viện để được truyền dịch tĩnh mạch liên tục với số lượng cơ liên quan đến một loại thuốc được điều trị bằng cách ngừng thuốc. Trong trường hợp viêm cơ do thuốc statin, tình trạng viêm thường giảm trong vòng vài tuần sau khi ngừng nhân gây viêm cơ bao gồm nhiễm trùng, chấn thương, bệnh tự miễn và tác dụng phụ của thuốc. Điều trị viêm cơ thay đổi tùy theo nguyên nhân gây bệnh vì vậy tất nhiên cần phải khám ngay để tìm nguyên nhân chính gây viêm cơ. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn XEM THÊM Viêm cơ nhiễm khuẩn Những điều cần biết Tìm hiểu thông tin về viêm cơ, viêm đa cơ, viêm da cơ Điều trị bệnh viêm mô tế bào theo hướng dẫn của Bộ Y tế Dịch vụ từ Vinmec Viêm cơ tự miễn dịch được đặc trưng bởi các tổn thương viêm và thoái hóa ở cơ viêm đa cơ, bệnh cơ qua trung gian miễn dịch hoại tử hoặc ở da và cơ viêm da cơ. Các biểu hiện bao gồm yếu cơ đối xứng 2 bên, có thể kèm theo đau cơ, và tổ chức xơ thay thế tổ chức cơ, có thể có teo cơ, chủ yếu là tổn thương các cơ ở vùng gốc chi. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng và các bất thường về xét nghiệm về cơ bao gồm xét nghiệm creatine kinase, chụp MRI, điện cơ và sinh thiết cơ. Một số loại viêm cơ có biểu hiện ở phổi và tim. Điều trị bằng corticosteroid kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch và/hoặc truyền tĩnh mạch globulin miễn cơ tự miễn thường gặp ở nữ nhiều hơn nam với tỷ lệ 21. Tỷ lệ mắc bệnh ở người Da đen cao gấp 3 đến 4 lần so với người Da trắng. Bệnh có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng thường xảy ra nhất ở tuổi 40-60, hoặc ở trẻ em từ 5-15 tuổi. Thay đổi mô bệnh học bao gồm tổn thương và teo tế bào cơ, với nhiều mức độ viêm khác nhau. Các cơ ở bàn tay, bàn chân và mặt ít bị ảnh hưởng hơn so các nhóm cơ khác của hệ thống vận động. Tổn thương của các cơ ở vùng hầu họng và thự quản trên và đôi khi của cơ tim có thể gây giảm chức năng của các cơ quan đó. Tình trạng viêm có thể xảy ra ở các khớp và phổi, đặc biệt ở những bệnh nhân có kháng thể kháng da cơ có đặc trưng bởi sự lắng đọng các phức hợp miễn dịch ở mạch máu và được coi là một bệnh lý mạch máu qua trung gian bổ thể. Ngược lại, viêm đa cơ được đặc trưng bởi tổn thương cơ trực tiếp qua trung gian tế bào T, và bệnh cơ hoại tử qua trung gian miễn dịch được đặc trưng bởi thâm nhiễm chiếm ưu thế đại thực bào và bệnh thực bào cơ. Viêm cơ tự miễn có thể được phân thành 4 nhóm, chủ yếu dựa trên mô bệnh học và triệu chứng lâm sàng Viêm đa cơViêm da cơBệnh lý cơ hoại tử qua trung gian miễn dịchViêm cơ thể vùi Viêm da cơ có thể được phân biệt với viêm đa cơ bằng các dấu hiệu da đặc trưng của viêm da cơxem Triệu chứng và Dấu hiệu Triệu chứng và Dấu hiệu Viêm cơ tự miễn dịch được đặc trưng bởi các tổn thương viêm và thoái hóa ở cơ viêm đa cơ, bệnh cơ qua trung gian miễn dịch hoại tử hoặc ở da và cơ viêm da cơ. Các biểu hiện bao gồm yếu cơ... đọc thêm . Hình ảnh mô bệnh học cơ cũng khác nhau. Viêm da cơ và viêm đa cơ có thể biểu hiện như các bệnh cơ đơn thuần hoặc như một phần của hội chứng kháng synthetase có thể liên quan đến viêm khớp thường là viêm khớp không bào mòn, sốt, bệnh phổi kẽ Tổng quan về bệnh phổi kẽ Bệnh phổi kẽ là một nhóm rối loạn không đồng nhất được đặc trưng bởi sự dày lên của vách phế nang, tăng sinh bào nguyên bào sợi, sự lắng đọng collagen, và nếu quá trình này vẫn không được kiểm... đọc thêm , tăng sinh keratin ở bên quay của các ngón tay bàn tay của người thợ cơ khí và Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud là sự co thắt mạch của bàn tay khi gặp lạnh hoặc stress tâm lý, gây khó chịu và thay đổi màu sắc nhợt, xanh, ban đỏ hoặc kết hợp ở một hay nhiều ngón tay. Thỉnh thoảng, các... đọc thêm .Viêm cơ toàn thân gây yếu cơ ở phần gần của chân, nhưng thường liên quan đến các cơ ở phần xa ví dụ cơ bàn tay và bàn chân thường kèm theo teo cơ. Bệnh phát triển ở độ tuổi lớn hơn, tiến triển chậm hơn và thường không đáp ứng với liệu pháp ức chế miễn dịch. Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh viêm cơ tự miễn dịch Khởi phát của bệnh viêm cơ tự miễn có thể là cấp tính đặc biệt ở trẻ em hoặc âm thầm đặc biệt ở người lớn. Đau nhiều khớp, hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud là sự co thắt mạch của bàn tay khi gặp lạnh hoặc stress tâm lý, gây khó chịu và thay đổi màu sắc nhợt, xanh, ban đỏ hoặc kết hợp ở một hay nhiều ngón tay. Thỉnh thoảng, các... đọc thêm , khó nuốt Khó nuốt Khó nuốt là tình trạng khó khăn khi nuốt. Tình trạng này xuất phát từ quá trình vận chuyển đồ lỏng, đồ đặc, hoặc cả hai từ họng đến dạ dày bị đình trệ. Không nên nhầm lẫn khó nuốt với cảm giác... đọc thêm , triệu chứng phổi ho, khó thở và các triệu chứng toàn thân sốt cao, mệt mỏi, gầy sút cân cũng có thể có. Các dấu hiệu tiên lượng nặng bao gồm khó nuốt, khàn tiếng, và/hoặc yếu cơ cơ có thể tiến triển trong vài tuần tới vài tháng. Tuy nhiên, phải tới khi 50% số lượng sợi cơ bị phá hủy mới gây ra triệu chứng yếu cơ ví dụ, yếu cơ cho thấy tình trạng viêm cơ đang tiến triển. Bệnh nhân có thể khó khăn khi nâng cánh tay cao lên trên vai, leo lên bậc thang, hoặc đứng lên từ vị trí ngồi. Đôi khi có triệu chứng đau cơ và teo cơ. Bệnh nhân có thể cần phải sử dụng xe lăn hoặc nằm liệt giường vì yếu cơ vùng đai chậu và đai vai. Các cơ gập cổ có thể bị ảnh hưởng nặng, làm cho bệnh nhân không thể nhấc đầu lên khỏi gối. Yếu các cơ vùng hầu họng và thực quản trên có thể dẫn đến khó nuột và gây sặc. Các cơ của bàn tay, bàn chân và mặt không bị ảnh hưởng, ngoại trừ trong bệnh viêm cơ thể vùi trong bệnh này biểu hiện tổn thương ở các cơ ngọn chi, đặc trưng là các cơ ở bàn tay. Co rút chân tay hiếm khi phát hiện khớp bao gồm đau đa khớp hoặc viêm đa khớp có sưng và các đặc điểm khác của viêm khớp không biến dạng. Hay gặp hơn trong thể có kháng thể kháng Jo-1 hoặc các kháng thể kháng synthetase khác. Tổn thương nội tạng ngoại trừ vùng hầu họng và thực quản trên ít gặp hơn trong viêm cơ tự miễn khi so với các bệnh lý khớp khác ví dụ như lupus ban đỏ hệ thống Lupus ban đỏ hệ thống SLE Lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh lý viêm tự miễn mạn tính có biểu hiện bệnh ở nhiều hệ cơ quan, xảy ra chủ yếu ở phụ nữ trẻ tuổi. Các biểu hiện phổ biến có thể bao gồm đau khớp và viêm khớp... đọc thêm , xơ cứng bì hệ thống Xơ cứng bì toàn thể Xơ cứng bì toàn thể là bệnh mạn tính hiếm gặp chưa rõ nguyên nhân được đặc trưng bởi xơ hóa lan tỏa và tổn thương mạch ở da, khớp và các cơ quan nội tạng đặc biệt là thực quản, đường tiêu hóa... đọc thêm . Đôi khi, đặc biệt là ở những bệnh nhân có kháng thể kháng synthetase, bệnh phổi kẽ Tổng quan về bệnh phổi kẽ Bệnh phổi kẽ là một nhóm rối loạn không đồng nhất được đặc trưng bởi sự dày lên của vách phế nang, tăng sinh bào nguyên bào sợi, sự lắng đọng collagen, và nếu quá trình này vẫn không được kiểm... đọc thêm biểu hiện bằng khó thở và ho là biểu hiện nổi bật nhất. Rối loạn nhịp tim, đặc biệt là rối loạn dẫn truyền hoặc rối loạn chức năng tâm thất, có thể xảy ra. Triệu chứng tiêu hóa, hay gặp hơn ở trẻ em, là do viêm mạch máu và có thể bao gồm đau bụng, nôn máu, phân đen, và thủng ruột do thiếu đổi da, ở bệnh viêm da cơ, bao gồm các ban sẫm màu và hồng ban. Nhạy cảm với ánh nắng mặt trời và loét da cũng có thể gặp. Phù quanh hốc mắt với xuất hiện ban màu đỏ tím heliotrope rash tương đối đặc hiệu cho viêm da cơ. Ở những vùng khác, ban ngoài da có thể hơi gồ cao và mịn hoặc có vẩy; nó có thể xuất hiện ở trán, vùng chữ V ở cổ và vai, ngực và lưng, cẳng tay và cẳng chân, mặt ngoài đùi, khuỷu tay và khớp gối, mắt cá trong, và mặt mu của các khớp ngón gần và khớp bàn ngón tay sẩn Gottron – một trong các tổn thương da khá đặc hiệu. Vùng nến móng và cạnh móng có thể dày lên. Viêm da bóc vảy với nứt da có thể có ở mặt quay của các ngón tay. Lắng đọng canxi dưới da và cơ có thể gặp, đặc biệt ở trẻ em. Các tổn thương da nguyên phát thường khỏi hoàn toàn nhưng có thể để lại các tổn thương thứ phát ví dụ, sắc tố màu nâu, teo, tân mạch dai dẳng, sẹo. Ban tổn thương trên da đầu có thể giống như vảy nến và ngứa. Những thay đổi đặc trưng của da có thể xảy ra trong trường hợp không có bệnh về cơ, trong trường hợp đó, bệnh được gọi là viêm da cơ không di căn. Tiêu chuẩn lâm sàngSinh thiết cơ bắt buộcNên nghi ngờ viêm cơ tự miễn ở những bệnh nhân có yếu cơ vùng gốc chi kèm theo hoặc không có cứng cơ. Nên nghi ngờ viêm da cơ ở các bệnh nhân có triệu chứng của viêm cơ và những tổn thương da phù hợp với viêm da cơ. Để chẩn đoán viêm cơ tự miễn, yêu cầu có càng nhiều yếu tố trong 5 yếu tố sau Yếu cơ vùng gầnBan trên da đặc trưngTăng các men cơ trong huyết thanh nếu không tăng creatine kinase [CK], xét đến các men aminotranferase hoặc aldolase ít đặc hiệu hơn CK rất nhiềuĐiện cơ hoặc MRI có bất thường về cơThay đổi trên sinh thiết cơ xét nghiệm có giá trị xác định chẩn đoánĐể tăng độ nhạy của kết quả sinh thiết, mẫu sinh thiết phải được lấy từ cơ có một hoặc nhiều đặc điểm sau Có yếu cơ khi khám lâm sàngBiểu hiện phù cơ được xác định trên cơ đối xưng được phát hiện bất thường trên điện xét nghiệm có thể thay đổi tăng hoặc giảm tương ứng với các rối loạn nghi ngờ, cho phép đánh giá mức độ nặng, xác định các trường hợp chồng lấp và phát hiện các biến chứng. Nên kiểm tra các kháng thể. Kháng thể kháng nhân ANA dương tính ở 80% bệnh nhân. Nếu xét nghiệm ANA dương tính, xét nghiệm thêm cho các loại kháng thể cụ thể là rất quan trọng trong việc làm tăng nghi ngờ về một hội chứng chồng lấp. Các biểu hiện và diễn biến lâm sàng thường liên quan với các kháng thể đặc hiệu được mô tả trong . Mối liên hệ giữa các tự kháng thể này và sinh bệnh học còn chưa rõ ràng, mặc dù kháng thể kháng Jo-1 là chất chỉ điểm đặc hiệu cho tổn thương viêm phổi kẽ, viêm khớp và hội chứng Raynaud. Không có kháng thể đặc hiệu cho viêm đa cơ. Bằng chứng về việc tăng nguy cơ ung thư là tương đối mạnh đối với viêm da cơ và ít mạnh hơn đối với viêm đa cơ. Do đó, cần sàng lọc ung thư ở bệnh nhân ≥ 40 tuổi bị viêm da cơ hoặc bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị viêm đa cơ vì những bệnh nhân này thường có các bệnh ung thư mà bác sĩ ít nghĩ tới. Sàng lọc phải bao gồm khám lâm sàng vú, khung chậu và trực tràng với xét nghiệm máu; công thức máu toàn phần, xét nghiệm sinh hóa, chụp vú, phân tích nước tiểu, chụp X-quang phổi; và các xét nghiệm cần thiết khác dựa trên tuổi của bệnh nhân. Các thăm dò bổ sung khác dựa trên bệnh sử và kết quả khám lâm sàng. Một số khuyến cáo chụp CT ngực, bụng và khung chậu, nội soi đại tràng, đặc biệt ở bệnh nhân viêm da cơ. Không cần thiết phải sàng lọc ở bệnh nhân trẻ tuổi không có các triệu chứng ung thư. Lui bệnh trong thời gian dài thậm chí đạt được khỏi bệnh gặp ở 50% bệnh nhân dược điều trị trong vòng 5 năm, thường gặp hơn ở trẻ em. Tuy nhiên, tái phát có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tỷ lệ sống sau 5 năm là 75% và cao hơn ở trẻ em. Tử vong ở người lớn là do các yếu tố viêm cơ nặng và tiến triển, khó nuốt, suy dinh dưỡng, suy hô hấp do nhiễm trung phổi. Tử vong ở trẻ bị viêm da cơ thể có thể do viêm mạch ở ruột. Viêm da cơ và viêm đa cơ thường có liên quan với tăng nguy cơ ung thư. Ung thư, nếu có, thường xác định tiên lượng tổng thể. CorticosteroidThuốc ức chế miễn dịch ví dụ, methotrexate, azathioprine, mycophenolate mofetil, rituximab, tacrolimusTruyền globulin miễn dịchGiảm thiểu các hoạt động thể chất cho đến khi kiểm soát được viêm. Corticosteroid là thuốc được lựa chọn ban đầu. Đối với bệnh cấp tính, liều điều trị cho người lớn là prednisone 1 mg/kg thường khoảng 40 đến 60 mg lần một lần/ngày. Đối với những trường hợp bệnh nặng có khó nuốt hoặc yếu cơ hô hấp, điều trị thường bắt đầu với corticosteroid liều cao ví dụ, methylprednisolone 0,5 đến 1 g truyền tĩnh mạch một lần/ngày trong 3 đến 5 ngày. Các phép đo tuần tự của creatine kinase CK cung cấp hướng dẫn ban đầu tốt nhất về hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân bị teo cơ lan tỏa, nồng độ CK có thể ở mức bình thường mặc dù có viêm cơ mạn tính, hoạt động. Tổn thương cơ trên MRI hoặc nồng độ CK cao thường có thể giúp phân biệt viêm cơ với bệnh lý cơ do corticosteroid. Aldolase là một xét nghiệm thay thế, mặc dù nó ít đặc hiệu hơn CK nhưng đôi khi có thể dương tính ở những bệnh nhân viêm cơ có nồng độ CK bình thường. Khi nồng độ enzyme giảm xuống hoặc đạt mức bình thường ở nhiều bệnh nhân trong 6 đến 12 tuần, sau đó là sức bền cơ bắp được cải thiện, liều corticosteroid có thể giảm dần. Nếu nồng độ men cơ tăng trở lại, liều corticosteroid thường được tăng lên trong khi chờ đợi tác dụng đầy đủ của các loại thuốc khác. Mục tiêu tổng thể là nhanh chóng loại bỏ tình trạng viêm nhưng giảm thiểu việc tiếp xúc với corticosteroid trong thời gian dài, đó là lý do tại sao thuốc thứ hai thường là methotrexate, tacrolimus hoặc azathioprine là thuốc không corticosteroid bước đầu được bắt đầu dùng cùng lúc với corticosteroid hoặc ngay sau đó để prednisone có thể được giảm dần đến liều tối đa 5 mg mỗi ngày, lý tưởng nhất là trong khoảng 6 tháng. Globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch là một lựa chọn tốt cho những bệnh nhân không đáp ứng nhanh với liệu pháp, phát triển các biến chứng nhiễm trùng với corticosteroid liều cao và các chất ức chế miễn dịch khác, hoặc những người đang hóa trị liệu. Một số chuyên gia có thể kết hợp 3 thuốc ở những bệnh nhân nặng hoặc khi có độc tính corticosteroid. Trẻ em cần liều điều trị liều prednisone ban đầu từ 30 đến 60 mg/m2 một lần một ngày. Đôi khi, bệnh nhân được điều trị với corticosteroid liều cao kéo dài có thể tăng yếu cơ sau đáp ứng ban đầu vì có thể mắc bệnh lý cơ chồng lấp, không đau do corticosteroid. Ở những bệnh nhân này, CK vẫn bình thường mặc cơ yếu cơ liên quan với ung thư thường kháng trị với corticosteroid. Viêm cơ liên quan đến ung thư có thể đạt được lui bệnh nếu khối u được lấy đi. Những người có bệnh tự miễn thường có nguy cơ cao bị chứng xơ vữa động mạch Chẩn đoán Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc mảng xơ vữa xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn. Các mảng chứa lipid, tế bào viêm, tế bào cơ trơn và mô liên kết. Các... đọc thêm và cần được theo dõi chặt chẽ. Bệnh nhân điều trị corticosteroid kéo dài nên được dự phòng loãng xương Phòng ngừa Loãng xương là bệnh xương chuyển hóa tiến triển làm giảm mật độ chất khoáng trong xương khối lượng xương trên một đơn vị thể tích, kèm suy giảm cấu trúc xương. Xương yếu dẫn đến gãy xương... đọc thêm . Nếu sử dụng liệu pháp ức chế miễn dịch kết hợp, bệnh nhân nên được điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội, chẳng hạn như Pneumocystis jirovecii xem phòng ngừa viêm phổi do Pneumocystis jirovecii Phòng ngừa Pneumocystis jirovecii là nguyên nhân phổ biến của viêm phổi ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch, đặc biệt là ở những người bị nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người HIV và ở... đọc thêm và vắc-xin chống nhiễm trùng thông thường ví dụ viêm phổi liên cầu Tổng quan về Viêm phổi Viêm phổi là tình trạng viêm cấp tính của phổi do nhiễm trùng. Chẩn đoán ban đầu thường dựa trên chụp X-quang phổi và các dấu hiệu lâm sàng. Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị, các biện pháp... đọc thêm , cúm Cúm Cúm là một bệnh nhiễm trùng hô hấp do vi rút gây sốt, sổ mũi, ho, đau đầu và mệt mỏi. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra trong các đợt dịch bộc phát theo mùa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy... đọc thêm , COVID-19 Vắc-xin phòng COVID-19 Vắc xin COVID-19 cung cấp sự bảo vệ chống lại COVID-19, căn bệnh do nhiễm vi rút SARS-CoV-2 gây ra. Tiêm vắc xin là chiến lược hiệu quả nhất để ngăn ngừa bệnh nặng và tử vong do nhiễm SARS-CoV-2... đọc thêm . Yếu cơ do viêm cơ thường gặp ở các cơ gốc tím quanh hốc mắt và sẩn Gottron là tổn thương đặc hiệu cho viêm da thiết lập chẩn đoán, hãy tìm phát ban đặc trưng, yếu cơ, tăng nồng độ creatine kinase và thay đổi cơ trên điện cơ đồ hoặc MRI. Ngoại trừ bệnh nhân có những tổn thương da đặc trưng, phải làm sinh thiết cơ để xác định chẩn xét sàng lọc ung thư ở bệnh nhân ≥ 40 tuổi bị viêm da cơ và bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị viêm đa trị bằng corticosteroid và các thuốc ức chế miễn dịch khác.

bệnh viêm đa cơ